Ai cũng muốn mà không ai hiểu. Tiền nong là đề tài cấm kỵ. Người ta chỉ là không nói gì về nó và nó dẫn đến những khoản nợ vay cho những người dưới chuẩn vay. Nó do lòng tham và những diễn dịch sai lệch về tiền bạc, và nguyên nhân cốt lõi của khủng hoảng tài chính lần này là do “mù tài chính” ở diện rộng mà ra. (*) Phần trích dẫn trên được lấy từ tạp chí The Economist vào năm 2008 khi cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo khủng hoảng kinh tế thế giới. Phần trích trên cho rằng sự sụp đổ của hệ thống tài chính là do sự lan tràn của tình trạng “mù tài chính”. Có thể có những yếu tố khác nữa, nhưng am hiểu tài chính đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong thảm kịch toàn cầu này. Việt Nam cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng khi thị trường chứng khoán sụp đổ và bong bóng bất động sản nổ tung, kéo theo hàng loạt vụ phá sản, nhiều người phải tự tử, chính gia đình người viết thời điểm đó cũng “đu theo” và dù nhờ vả nơi đáng tin cậy nhưng vẫn mất mát tỷ trọng không nhỏ trên số tiền “cầu may” này. May là tổng số tiền không quá lớn và là tiền nhàn rỗi nên không đến nỗi thảm kịch như nhiều người. Trong vòng 5 năm trở lại đây, các sản phẩm tài chính ngày càng trở nên phức tạp, thu nhập bình quân đầu người cũng tăng đến ngưỡng thu nhập trung bình nhưng hiểu biết về tài chính cá nhân không theo kịp độ phức tạp của các sản phẩm/dịch vụ tài chính, năng lực thực hành tài chính cá nhân không theo kịp mức độ phức tạp trong hành vi tiêu dùng của cá nhân ấy. Cụ thể hơn, am hiểu về tài chính, từ vốn từ vựng/thuật ngữ tài chính, đến những ý niệm cơ bản về tiền bạc, thu, chi, vốn liếng, … và các kỹ năng quản lý tài chính cá nhân cơ bản như lựa chọn thẻ ngân hàng, lập và quản lý kế hoạch chi tiêu, lựa chọn loại hình phòng ngừa rủi ro cá nhân, … hầu như không được biết đến và thực hành. Sự thiếu hụt này gây nên những bất lợi cho từng cá nhân, cản trở họ tham gia hiệu quả vào quá trình lựa chọn và ra quyết định tài chính, gây nên rủi ro tiềm ẩn trong tình trạng tài chính của họ. Lấy 1 ví dụ, thẻ tín dụng đang ngày càng được nhiều ngân hàng chào mời. Để thu hút nhiều người sử dụng thẻ tín dụng, các ngân hàng đưa ra nhiều ưu đãi hấp dẫn, trong đó có việc hạ chuẩn đầu vào của đối tượng cấp thẻ như giảm mức thu nhập để được cấp thẻ tín dụng xuống còn mức 4,000,000 đồng là được. Cách mà ngân hàng triển khai làm cho, một mặt người ta cảm thấy bất an vì thẻ tín dụng có vẻ như gây thiệt hại nhiều quá, có thể làm người ta mang nợ không đáng có; mặt khác, mức thu nhập đủ chuẩn giảm làm cho khả năng có thẻ dễ dàng hơn đưa người sử dụng vào rủi ro tiêu xài quá mức và không biết kiểm soát. Nếu không biết sử dụng hạn mức tín dụng (như là 1 hình thức vay nợ), không biết tầm quan trọng của điểm tín dụng (mà điểm tín dụng là gì thì đố mà biết), còn thẻ tín dụng có những lợi ích có thể khai thác trong phạm vi vài tình huống tài chính, thì không chỉ là chuyện gặp nợ nần mà người dùng còn không nắm bắt được lợi ích để dùng khi cần thiết. Tương tự với trả góp, có những câu chuyện vay trả góp mua xe máy để chạy xe Grab/Uber để cải thiện thu nhập, nhưng cũng có những chuyện nợ đến mức thì nợ xấu và bế tắc trong thanh toán tiền góp hàng tháng. Sự khác biệt nằm ở ý thức, rồi mới đến thói quen quản lý chi tiêu, và các hành vi chi tiêu. Tài chính cá nhân không chỉ giới hạn trong cá nhân mà còn nói đến gia đình và vì thế cân nhắc đến tài chính gia đình. Một trong những hoạt động cần làm nhưng hiếm gia đình nào làm là có các buổi trò chuyện thẳng thắn để hướng dẫn con cái về tiền, cách sử dụng và quản lý nó, cũng như phải biết chịu trách nhiệm cho các quyết định chi tiêu của mình. Một hệ lụy dễ thấy là khi học phí đại học còn rẻ, như hồi người viết đi học thì mức học phí trường công chỉ là 1,800,000 đồng/năm so, gia đình có dư khả năng chi trả. Học phí giờ đang ngày càng tăng, kể cả trường công cũng đã có trường có học phí lên đến gần 30,000,000 đồng/năm, mức này cao gần bằng mức thu nhập bình quân đầu người ở một số địa phương. Không trò chuyện cùng con cái để chúng có thể chia sẻ trách nhiệm và độc lập hơn trong cuộc sống để giảm bớt gánh nặng cho gia đình làm cho cùng lúc tình hình tài chính của cả gia đình, của phụ huynh và của chính người con bị đặt vào tình trạng rủi ro. Giả sử phụ huynh gặp đau bệnh thì tình hình càng gay go nếu không có dự phòng bằng bảo hiểm hoặc tiết kiệm. Trường hợp khác là gia đình mất đi lao động chính thì gánh nặng sẽ đặt lên vai những người còn lại, nhưng vì chưa bao giờ phải lo lắng về tài chính, nên người con có thể sẽ gặp phải những xung đột với chính bản thân và gia đình của mình.
Như thế, tự thân chuẩn bị những hiểu biết cần thiết về tài chính cá nhân và liên tục thực hành nó không chỉ tốt cho chính cá nhân này, mà còn giúp ích cho gia đình của họ. Họ có thể ra được những quyết định tài chính hợp lý, được cân nhắc kỹ lưỡng, có tham khảo từ người có chuyên môn khi cần thiết để tránh những rủi ro không đáng xảy ra. Tài chính luôn là về tương lai và vì thế, nó rốt cuộc là một trong những khoa học giúp phòng ngừa rủi ro có thể có trong tương lai. Độc lập về tài chính không nên là không phụ thuộc vào nó, nhưng lại chỉ luôn ở mức xoay xở vừa đủ ở mọi tình huống, sự độc lập này là không bền vững. Sự độc lập về tài chính cần bắt đầu từ sự thấu suốt không phụ thuộc vào tiền bạc tức không bị nó chi phối, kế đó là biết chuẩn bị đầy đủ ở hiện tại từ hiểu biết, kỹ năng đến nguồn tài chính để đảm bảo không bị phụ thuộc vào nó và người khác ở tương lai, đồng thời khai thác được hợp lý những lợi ích của nó, và sau là chuẩn bị cho thế hệ sau có được sự hiểu biết cần thiết và đúng đắn để họ cũng có thể độc lập về tài chính. Được giáo dục đúng đắn, tài chính cá nhân cũng sẽ giúp từng người thoát khỏi “mù tài chính”, kiểm soát được lòng tham, những cái mà The Economist từng cho là nguyên nhân cốt lõi của khủng hoảng tài chính 2008. (*) https://www.economist.com/node/10958702
0 Comments
Leave a Reply. |
AuthorWrite something about yourself. No need to be fancy, just an overview. ArchivesCategories |